Địa lý Mang Thít

Sông Mang Thít, đoạn chảy qua thị trấn Cái Nhum

Huyện Mang Thít nằm bên bờ sông Tiền, nằm ở phía Đông của tỉnh Vĩnh Long. Tọa độ địa lý từ 10°06' 10" đến 10°14'40” vĩ độ Bắc và từ 106°01’02” đến 106°11’00” kinh độ Đông, có vị trí địa lý:

Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ đi qua đang được xây dựng.

Địa hình

Mang Thít tương đối bằng phẳng, cao trình biến thiên từ 0,6m đến 2,0m, tiểu địa hình có sự khác biệt khá rõ, khuynh hướng cao ở các xã ven sông Cổ Chiên và sông Măng Thít thấp và phía Tây Bắc của huyện (xã Long Mỹ, Hòa Tịnh, Nhơn Phú) và thấp dần về các xã trung tâm huyện, chia ra các cấp sau:

  • Vùng có cao trình 0,4 – 0,6m chiếm 0,21% diện tích đang sử dụng phân bố ở các xã: Mỹ An, Mỹ Phước
  • Vùng có cao trình từ 0,8 – 1,0 m chiếm 17,83% diện tích đang sử dụng, phân bố ở các xã: Long Mỹ, Hòa Tịnh, Mỹ Phước, Nhơn Phú, Tân Long, Tân Long Hội, Tân An Hội, Chánh Hội
  • Vùng có cao trình từ 1,0 – 1,2m chiếm 49,04% diện tích đang sử dụng, phân bố đều ở các xã
  • Vùng có cao trình từ 1,2 – 1,4m chiếm 24,0% diện tích đang sử dụng, phân bố các xã ven sông Măng Thít và sông Cổ Chiên như: Mỹ An, Mỹ Phước, An Phước, Chánh An, Tân An Hội, Tân Long Hội
  • Vùng có cao trình từ 1,4 – 1,6m chiếm 6,25% diện tích đang sử dụng, phân bố các xã: Chánh An, An Phước, Mỹ Phước, Mỹ An và thị trấn Cái Nhum
  • Vùng có cao trình trên 1,6 – 1,8m chiếm 2,47% diện tích đang sử dụng, phân bố xã An Phước và thị trấn Cái Nhum
  • Vùng có cao trình trên 1,8 – 2,0m chiếm 0,20% diện tích đang sử dụng, phân bố ở xã An Phước.

Nhìn chung địa hình của huyện thấp dần từ phía sông Cổ Chiên và sông Măng Thít vào trung tâm huyện, kết hợp với hệ thống kênh rạch dày. Vùng có cao trình trung bình đến hơi thấp thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đa dạng, nhất là cây lúa ở khu vực nội đồng và cây ăn trái ven các sông rạch. Vùng có cao trình trên 1m có khả năng khai thác sét nguyên liệu và sản xuất gốm, gạch ngói. Tuy nhiên việc tác động của con người trong quá trình khai thác đất làm nguyên liệu sản xuất gạch ngói trong thời gian qua làm hình thành những tiểu địa hình thấp khác nhau.

Khí hậu

Mang Thít có đặt điểm cũng như toàn tỉnh Vĩnh Long, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, quanh năm nóng, ẩm, có chế độ nhiệt tương đối cao và bức xạ dồi dào. Kết quả thống kê về khí tượng thuỷ văn qua các năm, cho thấy: Nhiệt độ trung bình qua các năm biến động từ 27,3 - 27,8 °C, tuy nhiên qua các tháng trong năm 2010 vào mùa khô đặc biệt tháng 4, 5 cho thấy nền nhiệt của toàn tỉnh lên cao 35,5 - 38 °C. Tổng lượng bốc hơi trong các tháng đầu năm 2010 cao hơn trung bình nhiều năm 100 mm so với cùng kỳ nhiều năm.

  • Nhiệt độ cao nhất từ năm 2006 – 2010 là 37,2 °C, thấp nhất là 17,7 °C và biên độ nhiệt giữa ngày và đêm bình quân là 7,30 °C.
  • Bức xạ trên địa bàn huyện tương đối cao, bình quân số giờ nắng trong một ngày là 7,5 giờ. Bức xạ quang hợp hàng năm đạt 79.600 cal/m². Thời gian chiếu sáng BQ năm đạt 2.550 - 2.700 giờ/năm. Nhiệt độ và bức xạ dồi dào là điều kiện cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt.
  • Độ ẩm: không khí bình quân là 81 - 85%, trong tháng 9, độ ẩm đạt cao nhất là 88% và tháng thấp nhất là 77% vào tháng 3. Độ ẩm trung bình tháng qua các tháng trong năm 2009 ở mức khá cao, được ghi nhận là 84%, xấp xỉ và cao hơn 7% so với cùng kỳ nhiều năm.
  • Lượng mưa: Số ngày mưa bình quân trong năm là 100 - 115 ngày với lượng mưa trung bình đạt 1.550 - 1.650 mm/năm, riêng lượng mưa năm 2009 chỉ đạt 1.353 mm/năm.

Thuỷ văn

Mang Thít có đặc điểm cũng như toàn tỉnh Vĩnh Long chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông thông qua các sông lớn là sông Cổ Chiên và sông Măng Thít, có đặc tính địa hình rất nhạy cảm với chế độ nước trên sông, rạch, trong ngày có 2 con nước lớn, ròng, trong tháng thì có 2 con nước rong vào những ngày đầu và giữa của tháng âm lịch, ngoài ra còn có hệ thống kênh – rạch với mật độ 30 m/ha. Nước ngọt hầu như quanh năm, tạo thuận lợi cho tưới tiêu trong NN, giao thông thuỷ, phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.

Với đặc điểm thuỷ văn nêu trên, về tiềm năng tưới tự chảy cho cây trồng khá lớn, khả năng tiêu rút nước tốt, tạo lợi thế khá lớn cho sản xuất nông nghiệp, khả năng trao đổi nước mặt tốt, làm tăng quá trình tự làm sạch của dòng sông, làm giảm thiểu nguồn gây ô nhiễm nước mặt về dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất thải trong sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,…

Tóm lại, yếu tố khí hậu, thuỷ văn các năm khá thuận lợi cho nông nghiệp theo hướng đa canh, thâm canh tăng vụ và thích hợp cho ĐDSH tự nhiên phát triển. Tuy nhiên, do lượng mưa chỉ tập trung vào 6 tháng mùa mưa cùng với nguồn nước lũ từ thượng nguồn tạo nên một số khu vực bị ngập úng cục bộ, ảnh hưởng đối với sản xuất nông nghiệp, đời sống sinh hoạt của người dân và môi trường sinh thái. Đồng thời dưới tác động của biến đổi khí hậu trong thời gian gần đây, kết hợp với việc khai thác nguồn nước của các nước thượng nguồn sông Mêkông làm tăng cường tính cực đoan của khí hậu, diễn biến bất thường của mực nước trên sông Mêkông, khả năng xâm nhập mặn ngày càng sâu vào đất liền sẽ gây nên hậu quả là giảm dần các yếu tố thuận lợi về mặt khí hậu - thời tiết, điều kiện thuỷ văn - nguồn nước và tăng các nguy cơ tiềm ẩn do tác động của biến đổi khí hậu trong những thập kỷ tới.